Loãng xương
là một bệnh đứng thứ hai sau bệnh tim mạch ở người cao tuổi người cao
tuổi và cũng là bệnh dễ đe dọa đến tính mạng của họ. Ngày nay, bệnh
loãng xương đang có xu hướng gia tăng ở khắp toàn cầu, trong số đó người
cao tuổi và đặc biệt là phụ nữ chiếm tỷ lệ cao nhất (cứ 3 phụ nữ cao
tuổi thì có 1 người bị loãng xương).
Loãng
xương được định nghĩa là sự rối loạn nội tiết theo lực của xương bị suy
giảm và cấu trúc xương bị tổn hại dẫn đến dễ bị gãy, nứt, rạn.
Ảnh minh họa
Nguyên nhân gây loãng xương
Loãng
xương hay còn gọi là xốp xương, tức là tỷ trọng khoáng chất của bộ
xương ở một cơ thể bị suy giảm một cách đáng kể, trong đó hormone sinh
dục (estrogen, androgen), các chất protein, vitamin D và canxi đóng vai
trò đáng kể. Người ta thấy rằng, chế độ dinh dưỡng hàng ngày không cấp
đủ chất canxi hoặc vì một lý do nào đó cơ thể không hấp thu được canxi
(ăn kiêng kéo dài, chế độ ăn nghèo nàn, kém chất lượng).
Loãng
xương cũng có thể do mắc một số bệnh về tuyến thượng thận, cường giáp
trạng, suy thận, bệnh yếu liệt chi, chấn thương, hoặc bệnh mạn tính phải
nằm dài ngày, hoặc do lạm dụng thuốc corticoides trong một thời gian
dài...
Đặc
biệt ở phụ nữ đến thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh thì lượng hormone
estrogen trong máu bị suy giảm một cách đáng kể bởi sự suy thoái của
buồng trứng. Vì lý do này mà làm tăng hoạt tính của tế bào tủy xương,
làm cho khối lượng xương sẽ mất dần theo năm tháng kể từ khi mãn kinh
(mỗi năm mất khoảng từ 2 - 4%).
Ngoài
yếu tố về chế độ dinh dưỡng và nội tiết tố còn có nhiều yếu tố thuận
lợi (nguy cơ) làm cho bệnh loãng xương ở người cao tuổi tăng lên nếu như
trên cơ thể người đó có tiền sử bị còi xương lúc còn nhỏ, hàng ngày ít
vận động, béo phì.
Một
số tác giả đã tổng kết thấy có tới 7 nguyên nhân chính gây nên bệnh
Loãng xương giới tính (tỷ lệ nữ Loãng xương chiếm nhiều hơn nam): di
truyền, tuổi tác, cân nhẹ (chỉ số Ic < 19), hút thuốc lá, dùng thuốc
corticoides lâu dài.
Một số triệu chứng chính và hậu quả của bệnh loãng xương
Giảm
mật độ xương và Loãng xương là một bệnh mạn tính kéo dài nhiều tháng,
nhiều năm, một cách âm thầm, không đau đớn nên nhiều người bệnh không để
ý đến. Hầu hết các trường hợp trong giai đoạn đầu không có triệu chứng
gì đặc hiệu ngoài những dấu hiệu mệt mỏi, ăn uống kém, nhức xương không
thường xuyên. Càng về sau sự thiếu hụt chất canxi càng tăng làm cho
xương xuống cấp nghiêm trọng (loãng, xốp xương) thì các triệu chứng đau
nhức rõ rệt hơn. Đau nhức xương hay gặp là đau lưng, đau chân tay, các
khớp và mỏi bại hông, đặc biệt là các khớp xương chịu lực mạnh như:
xương sống, khớp gối, khớp cổ chân, khớp háng, các xương dài như: xương
đùi, xương cẳng chân, xương cánh tay, cẳng tay, đốt sống thắt lưng và dễ
dàng bị gãy xương do bị ngã, vấp... Đau nhức xương và các khớp xương
thường rõ nhất vào ban đêm.
Một
số triệu chứng khác như chuột rút cũng thường hay xuất hiện ở những
người Loãng xương. Khi bị bệnh Loãng xương không được phát hiện hoặc
phát hiện rồi nhưng điều trị không đúng phác đồ thì hậu quả xấu nhất là
rạn xương, nứt, vỡ hoặc gãy xương. Trên thế giới, người ta thấy rằng cứ
30 giây thì có một người bị bệnh gãy xương do Loãng xương và người ta dự
đoán rằng đến năm 2050 các nước châu Á, trong đó có nước ta sẽ chiếm
50% các trường hợp tàn phế hoặc bị đe dọa đến tính mạng do gãy khớp háng
vì Loãng xương gây ra.
Phát hiện bệnh loãng xương
người
cao tuổi nên đi khám bệnh về xương khớp ở các cơ sở y tế có đủ điều
kiện để được làm các xét nghiệm về cận lâm sàng đánh giá mật độ của
xương và tình trạng của xương. Hiện nay chưa có phương pháp đo lường
trực tiếp lực của xương nên chỉ đo lường gián tiếp. Một trong những
phương pháp đó là đo mật độ chất khoáng trong xương (bone mineral
density) bằng kỹ thuật DXA hay còn gọi là đo mật độ xương, chụp X quang
cột sống, xương tay chân... Ngoài ra, những người kém phát triển chiều
cao, cân nặng dưới 40kg, giảm trọng lượng nhanh, cơ bắp yếu, thiếu
hormone sinh dục (nữ giới là estrogen và nam giới là androgen), người
nghiện rượu, sử dụng corticoides kéo dài, nghiện thuốc lá... cũng nên
kiểm tra mật độ của xương.
Khi
người cao tuổi đã được chẩn đoán bị bệnh Loãng xương thì việc điều trị
đòi hỏi phải kiên trì. Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều
trị Loãng xương là người bệnh không tuân thủ phác đồ điều trị. Các
nghiên cứu cho thấy rằng, chỉ cần quên uống một liều thuốc trong vòng
một tuần lễ thì hiệu quả điều trị đã giảm xuống đến 64%. Uống thuốc gì,
liều lượng bao nhiêu và trong thời gian nào là do thầy thuốc khám bệnh
và có chỉ định cụ thể.
Khi
đã bị Loãng xương phải hết sức cẩn thận khi làm các động tác mạnh, đi
lại cũng phải hết sức cẩn thận tránh ngã, vấp, khuỵu, gập chân, tay,
nhất là lên cầu thang vì rất dễ gây gãy xương đặc biệt là xương đùi. Gãy
cổ xương đùi là một cấp cứu ngoại khoa nặng vì dễ dàng gây sốc và hậu
quả xấu khó lường.
Phòng bệnh loãng xương ở người cao tuổi
Cần
khám định kỳ theo lời hẹn của thầy thuốc. Việc phát hiện sớm và điều
trị ngay từ đầu rất có ý nghĩa để phòng bệnh Loãng xương và ngăn ngừa
gãy xương. Khi đã bị gãy xương do Loãng xương thì càng hết sức thận
trọng không để gãy xương tái phát. Muốn phòng bệnh Loãng xương, tốt nhất
là ăn uống đủ chất, nhất là các loại thức ăn giàu canxi, protein,
vitamin D như: tôm, cua, ốc, uống sữa và các chế phẩm của sữa có chứa
nhiều thành phần canxi, sinh tố D. Nên ăn thêm trái cây, rau, giá đỗ
(chứa nhiều estrogen) vì chúng có khả năng làm thay đổi sự chuyển hóa
của xương, giảm tốc độ mất xương và làm tăng khoáng chất cho xương. Cần
tập thể dục nhẹ nhàng, đều đặn như: đi bộ, tập hít thở, tập vận động các
khớp xương. Những người đã bị Loãng xương không nên làm các động tác
mạnh, gấp gáp và tránh ngã, vấp.
Nguồn: Sưu tầm